Nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng trên cơ sở bản án, quyết định của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc quyết định công nhận của Cục. Bên cạnh đó, trước khi quyết định tiến hành thủ tục xử lý vi phạm, cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm căn cứ vào các tiêu chí quy định tại Luật SHTT để xem xét, đánh giá một nhãn hiệu có được coi là nổi tiếng tại Việt Nam hay không. Cơ quan này có thể trao đổi ý kiến chuyên môn với Cục SHTT và/hoặc lấy ý kiến hội đồng tư vấn. Trường hợp NHNT tại Việt Nam được công nhận theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc theo quyết định công nhận của Cục SHTT, cơ quan xử lý vi phạm có thể căn cứ vào các tài liệu liên quan để xem xét việc thừa nhận nhãn hiệu được coi là nổi tiếng tại Việt Nam nếu việc công nhận NHNT của các cơ quan nêu trên tại thời điểm yêu cầu xử lý vi phạm còn phù hợp Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp). Mặc dù cơ sở pháp lý cho bảo hộ và thực thi quyền đối với NHNT ở Việt Nam đã được thiết lập, nhưng vẫn còn một số hạn chế, gây ra không ít khó khăn trong quá trình giải quyết các vụ việc liên quan đến NHNT. Dưới đây là một số điểm bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về nhãn hiệu nổi tiếng: Thứ nhất, định nghĩa NHNT chưa khái quát được đặc điểm, bản chất của NHNT. Đó là danh tiếng, uy tín gắn liền với nhãn hiệu như: danh tiếng, uy tín của nhà sản xuất, cung cấp dịch vụ; chất lượng hàng hoá, dịch vụ; bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng (chăm sóc khách hàng, dịch vụ hậu mãi…). Hơn nữa, định nghĩa này được cho là đặt ra yêu cầu quá cao so với các điều ước quốc tế chứa đựng các cam kết về NHNT (Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền SHTT - TRIPs). Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, NHNT phải được người tiêu dùng biết đến rộng rãi, trong khi Hiệp định TRIPs chỉ đặt ra yêu cầu đối với bộ phận công chúng liên quan (relevant sector of the public).
Thứ hai, quy định các tiêu chí xác định NHNT chưa rõ ràng. Điều 75 Luật SHTT quy định 8 tiêu chí được xem xét khi đánh giá NHNT nhưng lại không quy định rõ để một nhãn hiệu được công nhận là nổi tiếng thì phải thoả mãn tất cả các tiêu chí này hay chỉ một hoặc một số tiêu chí. Hơn nữa, các tiêu chí được cho là còn chung chung và mang tính định tính, mặc dù đã được quy định bổ sung tại điểm 42 Thông tư 01/2017/TT-BKHCN nhưng vẫn không dễ dàng áp dụng trong thực tiễn. Thứ ba, các quy định pháp luật hiện hành chưa đủ để phân biệt NHNT với nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi (được ghi nhận tại Luật SHTT) và nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi (được đề cập trong một số văn bản pháp luật như Nghị định 99/2013/NĐ-CP, Thông tư 11/2015-TT-BKHCN). NHNT và nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi được điều chỉnh bởi quy chế pháp lý khác nhau. NHNT được coi là một loại nhãn hiệu; phạm vi bảo hộ rộng hơn phạm vi bảo hộ dành cho nhãn hiệu thông thường. Hành vi xâm phạm quyền đối với NHNT bị xử lý như hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; còn hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Pháp luật Việt Nam không có quy định thế nào là nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi. Theo Thông tư 11/2015/TT-BKHCN, nhãn hiệu được coi là sử dụng rộng rãi nếu chủ thể yêu cầu xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh cung cấp được các chứng cứ chứng minh: chủ thể kinh doanh đã sử dụng nhãn hiệu một cách rộng rãi, ổn định, được nhiều người tiêu dùng tại Việt Nam biết đến, có thể bao gồm: các thông tin về quảng cáo, tiếp thị, trưng bày triển lãm; doanh thu bán hàng; số lượng sản phẩm bán ra; hệ thống đại lý phân phối, liên doanh, liên kết; quy mô đầu tư; đánh giá của các cơ quan nhà nước, phương tiện thông tin đại chúng, bình chọn của người tiêu dùng và các thông tin khác thể hiện uy tín của chủ thể kinh doanh gắn với chỉ dẫn thương mại trong hoạt động kinh doanh của mình tại Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi có mức độ phổ biến và danh tiếng, uy tín ở Việt Nam thấp hơn NHNT và chưa đạt đến mức NHNT. Tuy vậy, nếu đặt quy định nêu trên của Thông tư 11/2015/TT-BKHCN với các quy định pháp luật hiện hành về NHNT, vẫn không đủ cơ sở để phân biệt 2 đối tượng này. Chính vì quy chế pháp lý dành cho NHNT và nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi rất khác biệt, cho nên quy định pháp luật về từng đối tượng giúp xác định đúng một nhãn hiệu là NHNT hay nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi có giá trị pháp lý và thực tiễn. Thứ tư, thẩm quyền công nhận NHNT được trao cho Toà án và Cục SHTT nhưng lại thiếu các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục công nhận NHNT Trên đây là một số thông tin mà Luật Gia Phát cung cấp cho quý khách hàng. Với nhiều năm kinh nghiệm cùng đội ngũ luật sư chuyên nghiệp Luật Gia Phát sẽ giải đáp mọi thắc mắc từ quý khách hàng nhanh nhất và chính xác nhất về các quy định về hóa đơn điện tử và những vấn đề pháp luật liên quan khác. Hotline : 0981214789 Mail: ceo@luatgiaphat.vn
|